Câu trả lời thực sự cho việc tại sao người ta nói "dùng dầu dừa không
tốt cho sức khỏe" vừa mang tính lịch sử, vừa liên quan đến vấn đề kinh
tế.
Vào những năm 1950, người ta dùng dầu dừa đã bị hydro hóa để thực
hiện nghiên cứu trên động vật. Những nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ
cholesterol trong máu những con vật thí nghiệm tăng lên và nguy cơ xơ
vữa động mạch cũng tăng theo. Điều này khiến mọi người nghĩ rằng chất
béo bão hòa trong dầu dừa làm tăng cholesterol và gây ra bệnh tim mạch.
Vấn đề là ở chỗ trong những thí nghiệm đó, họ đã cố ý dùng dầu dừa đã bị hydro hóa (hydrogenated coconut oil). Trước khi nói tiếp, Hà giải thích một chút về dầu dừa hydro hóa.
Nhiệt độ tan chảy của dầu dừa tự nhiên là khoảng 22-24 độ C. Những
món ăn được chế biến dùng dầu dừa thì sẽ rất dễ bị chảy ra. Vì vậy
người ta đã nghĩ ra cách hydro hóa dầu dừa để làm cho dầu dừa không bị
tan chảy ở nhiệt độ bình thường nữa, tức là luôn ở dạng rắn. Trong quá
trình hydro hóa, một số loại chất béo trong dầu dừa sẽ bị biến đổi trở
thành chất béo gây hại gọi là chất béo chuyển hóa (trans fatty acid). Chất béo này là thủ phạm làm tăng mức cholesterol và là nguyên nhân của bệnh tim mạch, xơ vữa động mạch…
Trở lại vấn đề, vào những năm 1950, Mỹ là nước xuất khẩu dầu nành
(đậu nành, đỗ tương – soybean) và dầu bắp nhiều nhất thế giới. Những
ông chủ trong ngành công nghiệp này đã lợi dụng kết quả nghiên cứu sai
lệch trên để “hạ bệ” dầu dừa và “lăng xê” cho các loại dầu thực vật mà
họ đang sản xuất. Nhờ vận động hành lang mà họ được Quốc hội và Hội tim
mạch Hoa Kỳ (American Heart Association) ủng hộ. Năm 1957 họ còn đưa ra
chương trình Prudent Diet (tạm dịch: Thực đơn thông minh) để thay đổi
cách ăn uống của cả nước Mỹ bằng cách loại bỏ 100% dầu dừa và các loại
chất béo bão hòa, thay bằng các loại dầu thực vật khác. Mục tiêu của
chương trình này là giảm thiểu cholesterol và các bệnh tim mạch.
Tuy nhiên sau đó thì chúng ta cũng biết, bệnh tim mạch, tiểu đường
và béo phì ngày càng tăng và trở thành vấn đề xã hội không chỉ ờ Mỹ mà
toàn thế giới. Việc này một phần có liên quan đến chương trình Prudent
Diet của thập niên 50 ở nước Mỹ (nhiều nước trước đây chuyên sản xuất
dầu dừa cũng tin rằng dầu dừa có hại và nhập các loại dầu thực vật mà Mỹ
sản xuất).